Hãy gọi cho chúng tôi để được khảo sát miễn phí

04 3211 5141

 

CÁC DỊCH VỤ
   DỊCH VỤ DIỆT CÔN TRÙNG
     Ruồi  
     Muỗi  
     Kiến  
     Gián  
     Chuột  
     Các loại khác  
   DỊCH VỤ DIỆT MỐI
   DỊCH VỤ GIẶT ĐỆM SOFA
   CÁC DỊCH VỤ KHÁC  
   DỊCH VỤ KHỬ MÙI
   CUNG CẤP CÂY CẢNH
TRANG THIẾT BỊ
Máy phun mù nóng SS150F
Máy phun mù nóng SS150F
Máy phun sương, bột
Máy phun sương, bột
Bình phun Chapin
Bình phun Chapin
Súng bắn mồi
Súng bắn mồi
Máy phun sương lạnh
Máy phun sương lạnh
Máy phun mù nóng
Máy phun mù nóng
Bình phun côn trùng
Bình phun côn trùng
HÓA CHẤT
Bả chuột dạng viên nén Storm
Bả chuột dạng viên nén Storm
Bả chuột Racumin 0.75TP
Bả chuột Racumin 0.75TP
Bả diệt ruồi dạng hạt
Bả diệt ruồi dạng hạt
Mồi ruồi dạng hạt Agita
Mồi ruồi dạng hạt Agita
Crackdown 10SC
Crackdown 10SC
Hóa chất phun không gian
Hóa chất phun không gian
Thuốc diệt mối
Thuốc diệt mối
Map Sedan 48EC
Map Sedan 48EC
Hóa chất diệt trừ mối và mọt gỗ CISLIN
Hóa chất diệt trừ mối và mọt gỗ CISLIN

HỖ TRỢ TRỰC TUYẾN

Tư vấn 1

Tư vấn 2

Skype

Hotline:

043 211 5141
0936 791618

CÁC TIỆN ÍCH
Thời tiết
Tỷ giá
Giá vàng
Chứng khoán
Image
Số lượt truy cập : 534108
Số người trực tuyến : 2
 
 

Họ hàng nhà Ruồi

Là loài động vật chân khớp kí sinh, thuộc lớp Côn trùng (Insecta), bộ Hai cánh (Deptera). Ruồi chỉ có 2 cánh, trong khi phần lớn các loài côn trùng khác có 4 cánh. Ở ruồi, 2 cánh sau được thay thế bằng 2 cơ quan hình gậy nhỏ: đó là những bộ phận giữ thăng bằng. Chúng rung nhanh khi ruồi bay và đảm bảo cho sự vững chắc của ruồi. Hơn nữa, những bộ phận giữ thăng bằng còn giúp ruồi hạ cánh. Vòng đời của ruồi bao gồm: trứng - ấu trùng (còn gọi là giòi) - nhộng - trưởng thành (có cánh). Với nhiệt độ cao của mùa hè, loài ruồi có vòng đời từ 12 – 14 ngày. Có một số loài ruồi đáng lưu ý:

ĐẶC ĐIỂMRUỒI VÀ PHÂN LOẠI

RUỒI NHÀ (họ Musscidae)
 
               Ruoi3.jpg image by duymy
 
 
Họ Musca domestica lineaus, thường là ruồi nhà, là loại côn trùng gây hại trên toàn thế giới. Con trưởng thành có lớp màng cánh thứ tư gãy góc và có bốn sọc màu nâu chạy dọc theo phần lưng. Phần mặt chúng có hai sọc nhung, có màu bạc phía trên và vàng phía dưới. Mỗi con ruồi cái trưởng thành bắt đầu đẻ trứng vài ngày sau khi chúng nở ra. Tổng số trứng chúng đẻ ra 5 đến 6 bọc khoảng 75 đến 100 trứng. Trứng có màu trắng hình bầu dục. Ở nhiệt độ ấm áp, trong vòng 12 đến 24 tiếng trứng sẽ nở ra những con ấu trùng có màu trắng sữa, chúng sẽ chui vào các chất thức ăn nơi chúng được sinh ra. Nếu điều kiện ấm áp, ấu trùng này sẽ phát triển và nở thành nhộng trong vòng 5 đến 7 ngày. Ấu trùng ruồi trưởng thành sẽ thu ngắn lại tới khi lớp da ngoài của chúng tạo thành một lớp vỏ cứng hơn dài khoảng 0,6cm, bên trong vỏ này con nhộng đích thực được tạo thành. Khi đã hình thành đầy đủ thành ruồi thì chúng liền phá vỡ lớp vỏ và bay ra. Trong vòng vài giờ chúng sẽ giao hợp với nhau. Những vỏ ấu trùng rời lại sau khi ruồi nở vẫn chỉ ra tất cả những đặc tính của giai đoạn ấu trùng mà ta có thể nhận diện được. Vì vậy thông qua những vỏ này ta cũng có thể xác định là của chúng . Trong điều kiện ấm áp, trong vòng một tháng sẽ có khoảng hai đến ba thế hệ ruồi được sinh ra. Thường thì mật độ ruồi tăng và xuất hiện nhiều nhất là vào những tháng mùa thu. Khả năng chúng có thể sống qua mùa đông là ít được biết đến, nhưng ở một số vùng thì chúng có thể phát triển ở trong nhà qua mùa đông. Ruồi nhà có thể đẻ trứng lên bất cứ chất nào ấm, ẩm và sẽ là nguồn thức ăn phù hợp cho các ấu trùng phát triển sau này. Phân động vật, rác rưởi, các chất rau quả thối rữa và phần đất do các chất hữu cơ làm ô uế là những chất phù hợp cho chúng. Vào ban ngày, ruồi nhà sẽ nghỉ trên sàn, trên tường, trên mái trong nhà, ở bên ngoài chúng đậu trên cây trên mặt đất, trên các dây hàng rào, trên thùng rác và trên các bề mặt tương tự. Về đêm chúng chủ yếu đậu trên trần nhà, các đường dây điện và các đường dây khác trong nhà. Bên ngoài chúng đậu chủ yếu trên các hàng rào, đường dây điện, gờ của các toà nhà và trên cây. ở tất cả những nơi trên thì chúng thích hơn cả vẫn là góc và gờ hoặc các vật mảnh như là các hệ thống đường dây. Những nơi ruồi đậu về đêm thường là gần nguồn thức ăn ban ngày và cách mặt đất khoảng 1,5m đến 4,5mét.

RUỒI CHUỒNG TRẠI (STOMOXYS CALCITRANS)

 

 

 


 Ruồi chuồng trại có tên khoa học là stomoxys calcitrans và có thể dễ dàng phân biệt với các loài ruồi nhà khác bởi cái vòi dài, nhọn duỗi thẳng trước đầu. Cả con đực và con cái dùng vòi này để chích da của vật chủ và hút máu. Vết chích này gây đau và khi số lượng ruồi này xuất hiện nhiều bên ngoài thì chúng có thể tước mất những hoạt động của con người . Ruồi này đẻ trứng ở những nơi như rơm, cỏ khô mục, cỏ, rong biển lên men. Ruồi chuồng trại thường thấy ở xung quanh chuồng trại, nhà cửa và dọc theo bờ biển và gần cũi chó. ở hai nơi sau chúng thường được gọi là ruồi bãi biển hoặc ruồi chó . Từ 1 đến 3 ngày thì trứng nở thành giòi hay ấu trùng có màu hơi vàng trắng. Những ấu trùng trải qua 3 lần lột xác và trở thành nhộng ở lần lột xác cuối cùng, ở điều kiện thời tiết ấm, giai đoạn thành nhộng kéo dài từ 6 đến 20 ngày.Trung bình, con trưởng thành sống khoảng 20 ngày.

RUỒI MUSCA AUTUMMNALIS:


Musca autummnalis Face fly là một loại ruồi gây hại mới mà các chuyên gia có thể gặp ở nhiều khu vực của Đông Bắc hay trung Mỹ. Loài ruồi Mặt trông giống các loại ruồi nhà thông thường khác nhưng kích thước có hơi lớn hơn và màu sắc có đậm hơn. Có thể phân biệt ruồi đực dễ dàng vì mắt chúng gần phần đầu hơn so với các loài ruồi nhà khác. Còn ở ruồi cái thì dường như khó phân biệt hơn. Loài ruồi này thường có dải lông nhỏ ,mịn và hẹp ở mỗi bên mặt . Vì vậy phần mặt được phân ra bởi hai sọc mịn như nhung nối từ gần phần đầu xuống mép dưới của phần mặt. Mắt được phân ra từ phần chân râu. ở loại ruồi mặt, các sọc mịn này có ánh sáng lấp lánh ánh bạc dọc theo độ dài của sọc, Nhưng ở ruồi nhà thì phần nửa trên màu bạc còn phần dưới có màu hơi vàng. Đặc điểm này thì có ổ cả hai giới tính, ruồi đực thường tụ tập lại ở một số loài hoa. Vào những tháng mùa hè, ruồi cái sẽ đẻ trứng trên các đống phân tươi. Các ấu trùng màu vàng này sẽ sống ở đống phân cho tới khi chúng phát triển thành nhộng, sống dưới đất hay trên bề mặt đất bên dưới đống phân. Ruồi trưởng thành sống nhờ vào các màng nhầy và các chất bài tiết xung quanh mắt, mũi ngựa và gia súc. Gây cho chúng rất nhiều phiền toái. Trong suốt những tháng mùa đông và mùa thu, con trưởng thành có thể ngủ đông ở trên tường của các toà nhà, cũng giống như ruồi đàn. Vào những ngày ấm áp, những con ruồi ngủ đông này hoạt động trở lại và thường di chuyển vào bên trong các toà nhà với số lượng lớn.

RUỒI NHÀ NHỎ (fannia canicularis):

 

  Ruồi nhà nhỏ có tên khoa học là fannia canicularis (thuộc họ ruồi nhà) thường được thấy bay lởn vởn giữa không trung hoặc lao nhanh ở giữa nhà. Nó khác ruồi nhà ở chỗ nó được thấy ở khắp nơi trong nhà và hiếm khi xuất hiện trên bàn lớn. Loài ruồi này đẻ trứng trên rau mục nát, trên phân đặc biệt là phân gà, phân người, phân ngựa và phân bò. ấu trùng nở sau 24 giờ và có thể nhận biết ở dạng dẹt, có gai, khi phát triển đầy đủ dài khoảng 6mm. Quá trình lột xác kéo dài khoảng 7 ngày ở điều kiện thích hợp. Chu kì sống hoàn chỉnh khoảng 15 đến 30 ngày.

RUỒI NHÀ XÍ (fannia Scalanis)

 
 
 
    Ruồi  nhà xí, tên khoa học là fannia Scalanis (fabricius), rất giống ruồi nhà  nhỏ nhưng ruồi nhà xí trưởng thành hơi lớn hơn. Đặc điểm sinh học và  những thói quen thì cũng rất giống như ruồi nhà nhỏ.

 RUỒI TRÂU (FLESH FLY): Họ sarcophagidae

 
    
    Ruồi  trâu có nhiều ở khu dân cư đông đúc, nhưng hiếm khi vào nhà hay những  nơi để đồ ăn với số lượng đáng kể. Nhiều ruồi cái đẻ ấu trùng sống trên  thịt vụn hoặc trên phân chó. Chúng thường gây khó chịu ngoài trời gần  nơi chó qua lại.
    Ruồi trâu lớn hơn ruồi nhà (từ 2 đến 3 lần) và màu hơi xám với những ô xám đen ở bụng.

RUỒI NHẶNG VÀ RUỒI NHẶNG XANH: (họ calliphoridae)

 


    Loài  ruồi này thường xuyên xuất hiện ở những khu vực ô nhiễm, đặc biệt là  thường thấy với số lượng lớn gần các khu vực giết, mổ gia súc, các nhà  máy chế biến thịt và các bãi rác. Ruồi trưởng thành lớn và có màu xanh  bạc hay màu xanh thẫm. Mặc dù trứng thường xuyên được đẻ vào thịt hay  xác động vật, nhưng chúng cũng có thể đẻ trứng lên các chất rau quả  thối rữa khi không có thịt. Chúng thường được tìm thấy ở những miếng  thịt thừa hay các thùng rác ở nhà rác. ở các thành phố thì các thùng  rác là những nguồn quan trọng nhất. Chỉ riêng các thùng rác sản sinh ra  khoảng 30.000 con ruồi trong vòng một tuần. ấu trùng mới sinh ra chỉ  sống một thời gian ngắn trên các chất mà trứng được đẻ lên, sau đó  chúng sẽ chui xuống dưới ít thối rữa hơn. Khi trưởng thành, ấu trùng sẽ  rời các chất thức ăn đó chui xuống đất và phát triển thành nhộng.
    Ruồi thuộc họ này có phần miệng và có thói quen ăn uống như các loài ruồi nhà và là các con vật mang các mầm bệnh.            

Cả  hai loại nhặng này đều thuộc giống Cynomýopí và calliphỏa. Những loài  ruồi này mất khoảng 15 ngày hoặc hơn để phát triển từ trứng tới trưởng  thành. Chúng thường xuất hiện gần các toà nhà khi thời tiết mát mẻ, đặc  biệt khi có các chất phù hợp cho việc đẻ trứng. Chúng thường thích các  chất như xác động vật, thịt và các chất rau quả thối rữa.
    Loài  nhặng và nhặng xanh phổ biến nhất là thuộc họ: phgaenica Lucilia và  bufolucilia, mặc dù có vài loài ruồi ít phổ biến hơn. Nhặng xanh thường  là loài có mật độ lớn nhất thuộc họ Calliphoridae thường thấy ở Mỹ.  Loài ruồi phổ biến thường thấy sống xung quanh con người là loài nhặng  có màu sẫm đồng, Phanencia, sericata (Meigen) và loài nhặng có màu xanh  phaencia pallescens (Shannon) và Phaencia caeruleiviridis(McQuart).
Loài  nhặng này có vòng đời tương đối ngắn, chỉ mất khoảng 9 đến 21 ngày để  phát triển từ trứng đến trưởng thành. Chúng đẻ trứng lên trên xác dộng  vật thối rữa hay trên các chất hỗn hợp giữa các loại rau quả hay xác  động vật thối rữa. ấu trùng sống trên các chất này khoảng 2 đến 10 ngày  và sau đó chúng chui xuống đất và phát triển thành nhộng Giai đoạn  nhộng của những loài ruồi này thường trải qua mùa đông ở dưới đất.
    Loài nhặng đen Phormia  regina (Meigen)  phổ biến trên khắp nước Mỹ chúng thường phát triển mạnh vào những tháng  mùa xuân ấm áp, nhưng lại thường xuyên xuất hiện vào những ngày ấm  trong mùa đông. Con trưởng thành có màu xanh sẫm bạc.
    Chúng  thường đẻ trứng lên trên các chất như: thịt, rác, hay rìa các vết  thương của các động vật sống. vòng đời khoảng 10 đến 23 ngày phát triển  từ trứng tới con trưởng thành.
    Ruồi bầy, đàn pollenia rudis, phổ biến trên khắp nước Mỹ trừ khu vực giáp ranh vịnh  Mexico.  Nó có tên như vậy bởi vì chúng có thói quen tụ tập thành bầy khi chúng  nghỉ đông, thường trên cao, mái vòm, hay khung cửa sổ. Chúng ta thường  nhầm giữa con trưởng thành với ruồi nhà. Mặc dù chúng có phần lớn hơn  và có màu thẫm hơn (xem hình 14-B). Ruồi bầy không giống như ruồi nhà,  khi chúng nghỉ, cánh nọ vắt lên cánh kia. Chuyển động của chúng cũng  chậm hơn nhiều so với ruồi nhà. Sự hiện diện của vài cái lông vàng,  xoăn lại ở hai bên ngực của loài ruồi này giúp ta phân biệt với bất cứ  loài ruồi nhà nào khác thuộc họ calliphorid ở Bắc Mỹ.
Chúng  đẻ trứng bừa bãi vào các khe, kẽ trên mặt đất, ấu trùng mới sinh ra sẽ  thâm nhập vào cơ thể của một số loài giun đất và sống ở đó khoảng 11  đến 14 ngày .Khi trưởng thành chúng chui ra khỏi giun đất, phát triển  thành nhộng và lên trên mặt đất .
Vào  những mùa thu các con trưởng thành tụ họp lại trên các khoảng trống của  nhà cửa ,đặc biệt là trên tường. Chúng có thể bay vào nhà qua các lỗ  nhỏ vì vậy những màn chắn luôn có tác dụng. Vào những ngày ấm áp mùa  đông cũng như đầu mùa xuân, chúng thường dời những nơi cư ngụ này với  số lượng lớn và bị mắc bẫy trong nhà. Chúng ta cũng thường thấy chúng  xuất hiện phía ngoài vào những ngày mùa đông, đặc biệt là trên những  bức tường phía Nam  và phía Đông vì những bức tường này thường ấm bởi mặt trời chiếu suốt  ngày. Chúng không gây ra tai hại cụ thể nào mà chỉ gây ra những sự  phiền toái vì số lượng lớn của chúng. Sự xuất hiện lẫn lộn giữa ruồi bò  và ruồi đàn là phổ biến.

  Gửi cho bạn   Bản in

Các tin khác
Kiểm soát ruồi (04/ 01/ 2010)
Đầu trang